Giao tiếp dùng ngôn ngữ Giao tiếp

Giao tiếp bằng lời là sự truyền đạt thông điệp bằng lời nói hoặc bằng văn bản. Ngôn ngữ của con người có thể được định nghĩa như một hệ thống các ký hiệu (đôi khi được gọi là từ vựng ) và các ngữ pháp ( quy tắc ) mà các ký hiệu được sử dụng. Từ "ngôn ngữ" cũng dùng để chỉ các thuộc tính chung của các ngôn ngữ. Việc học ngôn ngữ thường diễn ra mạnh mẽ nhất trong thời thơ ấu của con người. Hầu hết các ngôn ngữ của con người sử dụng các mẫu âm thanh hoặc cử chỉ cho các ký hiệu giúp giao tiếp với những người xung quanh. Các ngôn ngữ có xu hướng chia sẻ các thuộc tính nhất định, mặc dù có những ngoại lệ. Không có ranh giới xác định giữa một ngôn ngữ và một phương ngữ . Các ngôn ngữ được xây dựng như Esperanto, ngôn ngữ lập trình và các hình thức toán học khác nhau không nhất thiết bị giới hạn ở các thuộc tính của ngôn ngữ con người.

Như đã đề cập trước đây, ngôn ngữ có thể được đặc trưng là biểu tượng. Charles Ogden và IA Richards đã phát triển mô hình Tam giác ý nghĩa để giải thích biểu tượng (mối quan hệ giữa một từ), tham chiếu (sự vật mà nó mô tả), và ý nghĩa (ý nghĩ gắn liền với từ và sự vật).

Các thuộc tính của ngôn ngữ do các quy tắc chi phối. Ngôn ngữ tuân theo các quy tắc âm vị học (âm thanh xuất hiện trong một ngôn ngữ), quy tắc cú pháp (sắp xếp các từ và dấu câu trong câu), quy tắc ngữ nghĩa (ý nghĩa thống nhất của từ) và quy tắc ngữ dụng (nghĩa xuất phát từ ngữ cảnh).

Các nghĩa được gắn vào từ có thể là nghĩa đen, hay còn được gọi là biểu thị; liên quan đến chủ đề đang được thảo luận, hoặc, các ý nghĩa có tính đến ngữ cảnh và các mối quan hệ, hay còn gọi là nghĩa bóng; liên quan đến cảm xúc, lịch sử và động lực quyền lực của những người đang thực hiện giao tiếp. [8]

Trái với suy nghĩ thông thường, các ngôn ngữ ký hiệu trên thế giới (ví dụ: Ngôn ngữ ký hiệu Mỹ) được coi là giao tiếp bằng lời nói vì từ vựng ký hiệu, ngữ pháp và các cấu trúc ngôn ngữ khác tuân theo tất cả các phân loại cần thiết giống như ngôn ngữ nói. Tuy nhiên, có những yếu tố phi ngôn ngữ đối với ngôn ngữ ký hiệu, chẳng hạn như tốc độ, cường độ và kích thước của các ký hiệu được tạo ra. Người ra ký hiệu có thể ký hiệu "có" để trả lời một câu hỏi, hoặc họ có thể ra ký hiệu từ có với hàm ý châm biếm để truyền đạt một ý nghĩa phi ngôn ngữ khác. Dấu hiệu "có" là thông điệp bằng lời nói trong khi các chuyển động cơ thể khác bổ sung ý nghĩa phi ngôn ngữ cho thông điệp được truyền tải.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Giao tiếp http://expertscolumn.com/content/communication-and... http://www.pmhut.com/what-should-be-included-in-a-... http://www.simplybodylanguage.com/types-of-body-la... http://www.studymode.com/essays/Important-Componen... http://math.harvard.edu/~ctm/home/text/others/shan... http://collegian.tccd.edu/?p=3851 http://qbox.wharton.upenn.edu/documents/mktg/resea... http://www.csee.wvu.edu/~xinl/complexity.html http://www.dtic.mil/doctrine/new_pubs/jp3_13.pdf http://www.beyondintractability.org/bi-essay/cross...